Thị trường tín chỉ Carbon: Doanh nghiệp đóng vai trò chủ thể

https://congthuong.vn/thi-truong-tin-chi-carbon-doanh-nghiep-dong-vai-tro-chu-the-183058.html

Thực hiện cam kết tại Hội nghị COP 26 để vận hành thị trường carbon trong nước, Việt Nam sẽ xây dựng các quy định quản lý tín chỉ carbon và triển khai cơ chế.
Hướng tới thị trường tín chỉ carbon

Thực hiện cam kết tại Hội nghị COP 26 và để vận hành thị trường carbon trong nước, giai đoạn từ nay đến năm 2027, Việt Nam sẽ xây dựng các quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (KNK) và triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng.

Mở ra ngành kinh doanh mới

Ông Tăng Thế Cường- Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (BĐKH), Bộ Tài nguyên và Môi trường – cho biết, Việt Nam đang trong tiến trình tăng cường năng lực xây dựng và vận hành thị trường carbon nhằm hiện thực hóa mục tiêu cắt giảm phát thải KNK theo Thỏa thuận Paris, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế theo hướng carbon thấp và phát triển bền vững.

Thị trường tín chỉ Carbon: Doanh nghiệp đóng vai trò chủ thể
Sử dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp trong sản xuất điện sinh khối

Cụ thể, theo Báo cáo kỹ thuật Đóng góp quốc gia tự quyết định cập nhật năm 2020, Việt Nam sẽ cắt giảm 9% tổng lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương với 83,9 triệu tấn CO2 với nguồn lực trong nước. Khi có thêm các hỗ trợ quốc tế, mục tiêu cắt giảm phát thải KNK sẽ lên đến 27% so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương 250,8 triệu tấn CO2.

Với nguồn lực nội tại, tiềm năng giảm phát thải của các lĩnh vực: Năng lượng (tương ứng là 51,5 triệu tấn CO2 tương đương), nông nghiệp (6,8 triệu tấn CO2), chất thải (9,1 triệu tấn CO2), các quá trình công nghiệp (7,2 triệu tấn CO2). Lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp có tiềm năng giảm phát thải lên đến (9,3 triệu tấn CO2 tương đương). Bên cạnh đó, các dự án trồng rừng, các dự án theo Cơ chế phát triển sạch (CDM) hay các hành động giảm nhẹ BĐKH phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMAs) cũng có tiềm năng tạo nguồn tín chỉ carbon để thu hút các doanh nghiệp đầu tư.

Theo số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), mỗi năm Việt Nam có thể bán ra thị trường thế giới 57 triệu tín chỉ carbon, cho thấy tiềm năng rất lớn từ nguồn thu này, thậm chí mở ra ngành kinh doanh mới.

Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có đơn vị chứng nhận tín chỉ carbon đạt tiêu chuẩn quốc tế nên việc giao dịch, mua bán, chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng từ xây dựng hồ sơ, phê chuẩn hồ sơ dự án phải thông qua các đầu mối nước ngoài. Điều này gây khó khăn cho các chủ rừng trong việc xác định quyền sở hữu carbon, giao dịch chuyển nhượng quyền carbon, nhận giấy chứng nhận giảm phát thải cũng như cơ chế quản lý tài chính.

Doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch giảm phát thải

Theo Cục BĐKH, giai đoạn từ nay đến hết năm 2027, Việt Nam sẽ tập trung xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025… Năm 2028 sẽ tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức, quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.

Theo lộ trình, các doanh nghiệp trong danh mục cơ sở phát thải lớn cũng có quy định bắt buộc phải xây dựng kế hoạch giảm phát thải từ năm 2026 trở đi. Trong giai đoạn thí điểm, các ngành, các cơ sở phát thải lớn như: Thép, nhiệt điện, quản lý chất thải rắn, sản xuất xi măng sẽ được giao nhiệm vụ kiểm kê phát thải theo danh mục do Thủ tướng Chính phủ ban hành, đồng thời nâng cao năng lực, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện để tham gia thị trường thương mại khi chính thức vận hành.

Như vậy, các doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực hoàn toàn có đủ thời gian tìm hiểu và có sự chuẩn bị tham gia thị trường. Đặc biệt là các vấn đề liên quan đến kiểm kê, giám sát phát thải KNK và MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) cấp quốc gia/ngành/tiểu ngành/cơ sở sản xuất; tính toán mức tiêu hao năng lượng và phát thải KNK trong sản xuất, kinh doanh…

Trong bối cảnh nhu cầu về nguồn điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội ngày càng lớn, năng lượng tái tạo đang được doanh nghiệp Việt lựa chọn là bước đi chiến lược trên một sân chơi lớn.

Tiềm năng phát triển ngành năng lượng điện gió tại Việt Nam

Việt Nam nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc phát triển nguồn năng lượng điện gió, thuộc vùng khí hậu gió mùa, được định hình bởi đường bờ biển dài hơn 3.000 km. 39% lãnh thổ có tốc độ gió lớn hơn 6m/s, tương đương tiềm năng sản lượng điện gió 513 GW. Đặc biệt, khoảng 10% trong số đó, được coi là có tiềm năng năng lượng điện gió rất lớn nằm tại các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên và Nam Bộ.

Các dự án điện gió hứa hẹn sẽ tạo giá trị lớn và bền vững cho doanh nghiệp trong năm 2020 và các năm tiếp theo

Trong bối cảnh tài nguyên năng lượng truyền thống như năng lượng hóa thạch đang dần cạn kiệt và gây ô nhiêm môi trường, sản lượng dự trữ dầu thô và các mỏ dầu khí truyền thống như Bạch Hổ, Sư Tử, Rồng, Ruby đang sụt giảm; xu hướng thúc đẩy sản xuất điện từ năng lượng tái tạo trở thành xu hướng tất yếu.

Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã quy hoạch công suất hệ thống điện quốc gia phải đạt 60 GW vào năm 2020, trong đó tỷ trọng năng lượng tái tạo là 9.9%. Tuy nhiên tổng công suất đến thời điểm này chỉ đạt 56 GW, thấp hơn khoảng 4 GW theo con số được phê duyệt.

Cũng theo quy hoạch điện VII điều chỉnh, trong giai đoạn 2021 – 2025 dự kiến phải bổ sung nguồn cung cấp điện ít nhất 32 GW, chủ yếu từ các dự án điện than và điện khí, tuy nhiên các dự án này đến nay thường bị chậm 3-4 năm, dự báo năm 2023 sẽ thiếu hụt 13 GW và 2025 thiếu hụt khoảng 8 GW nguồn điện. Tại tờ trình số 1931 ngày 19/3/2020 Bộ công thương đã đề xuất chính phủ bổ sung quy hoạch các dự án điện gió, tương đương 11.6 GW. Đồng thời tại Tờ trình 3299/BCT-ĐL ngày 08/05/2020 Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét kéo dài thời gian áp dụng cơ chế giá điện cố định cho các dự án điện gió theo Quyết định 39 tới hết ngày 31/12/2023 nhằm tạo niềm tin và động lực cho các nhà đầu tư tiếp tục triển khai dự án.

Với cơ chế giá FIT ưu đãi được kéo dài thêm 2 năm, sẽ tạo động lực thúc đẩy thị trường điện gió tại Việt Nam phát triển sau một thời gian trầm lắng do giá thấp. Trong văn bản kiến nghị mới đây, các chuyên gia kinh tế cho rằng với tiềm năng lớn, điện gió sẽ là một trong những nguồn điện quan trọng góp phần đảm bảo an ninh năng lượng trong giai đoạn 2021 – 2025, bù đắp vào phần thiếu hụt do nhiều dự án nguồn điện lớn khác đang chậm tiến độ.

Phát biểu trong chương trình thảo luận về chủ đề dự báo kinh tế vĩ mô Việt Nam, Tiến sĩ Võ Trí Thành, Nguyên Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương chia sẻ: “Năng lượng sạch – Năng lượng tái tạo là lĩnh vực mới được chú ý trong vài năm gần đây. Tập đoàn Điện lực Việt nam (EVN) xác định từ năm 2020 tới năm 2023 sẽ xảy ra thiếu điện nghiêm trọng nếu các dự án trong Tổng sơ đồ điện VII điều chỉnh tiếp tục bị chậm tiến độ. Vấn đề thiếu điện sẽ trở thành sự đe dọa cho tình hình sản xuất kinh doanh, gây khó khăn kép cho nền kinh tế cả nước. Bên cạnh việc giải quyết bài toán năng lượng lâu dài cho quốc gia, việc đẩy mạnh phát triển điện gió ngoài khơi và kinh tế biển sẽ góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia và lãnh hải, thu hút được nhiều nhà đầu tư, nhà thầu từ nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, còn có thể tận dụng công nghệ và thiết bị xây dựng góp phần chuyển giao, bổ sung chiến lược và lao động hiện có của các ngành vận tải biển và cảng, thăm dò và khảo sát biển”.

Nắm bắt được nhu cầu của thị trường về lĩnh vực năng lượng tái tạo, hiện nay có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã gia nhập lĩnh vực tiềm năng sinh lợi cao này như Tập đoàn Trung Nam, Tập đoàn BIM, Tập đoàn Xuân Cầu, Công ty Pacific, Công ty FECON, Tập đoàn Thành Công Group, BCG Bamboo Capital, Tập đoàn Trường Thành hay Tập đoàn Hà Đô…

Bước đi chiến lược của những doanh nghiệp Việt nhìn xa

Với thế mạnh là nhà thầu uy tín tại Việt Nam, Công ty cổ phần FECON (mã FCN – sàn HoSE đã có những quyết sách chuyển mình nhịp nhàng theo xu hướng và nhu cầu của thị trường chung. Tại Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2020 diễn ra vào ngày 18/6/2020, FECON đã tuyên bố chiến lược vươn lên thành nhà thầu xây dựng công nghiệp và hạ tầng hàng đầu Việt Nam và nhà đầu tư dự án uy tín theo chuẩn quốc tế dựa trên năng lực xuất sắc về nền, móng và công trình ngầm. FECON đặt mục tiêu chinh phục lĩnh vực xây dựng công nghiệp và đầu tư dự án năng lượng tái tạo với nhiều dự án điện gió, điện mặt trời tại miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam.

Cho đến thời điểm này, FECON đã thi công hoàn thành 4 dự án điện mặt trời, trúng thầu 4 dự án điện gió, đã đầu tư hoàn thành 1 dự án điện mặt trời và đang chuẩn bị tham gia đầu tư một dự án điện gió công suất 120 MW tại tỉnh Sóc Trăng, đồng thời công ty tiếp tục nghiên cứu đầu tư 2 dự án điện gió và 2 dự án điện mặt trời với tổng công suất 5 dự án sau khi hoàn thành khoảng 700 MW.

Theo đánh giá từ Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí (PSI), việc phát triển năng lượng tái tạo đang là xu hướng tất yếu trong tương lai của toàn cầu nói chung và của Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam, dự kiến nhu cầu điện tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, đặc biệt sau khi Việt Nam đã chính thức đạt được các thỏa thuận CPTPP, EVFTA cũng như đang được đánh giá là quốc gia hưởng lợi từ sự dịch chuyển sản xuất của các doanh nghiệp toàn cầu trong bối cảnh căng thẳng Mỹ – Trung vẫn đang leo thang.

Trên thị trường chứng khoán niêm yết hiện nay có gần 30 doanh nghiệp sản xuất điện, hầu hết là các doanh nghiệp nhiệt điện than, nhiệt điện khí và thủy điện. Tuy nhiên các doanh nghiệp này khó có khả năng gia tăng công suất trong thời gian tới do ảnh hưởng bởi nguồn nguyên liệu, điều kiện thủy văn… Do vậy, các doanh nghiệp tham gia đón sóng năng lượng tái tạo sẽ hiện thực hóa được nhiều cơ hội phát triển khi thị trường năng lượng sạch được đánh giá là dư địa lớn cho việc gia tăng doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp trong thời gian tới.

Tại Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2020 diễn ra vào ngày 18/6/2020, FECON đã tuyên bố chiến lược vươn lên thành nhà thầu xây dựng công nghiệp và hạ tầng hàng đầu Việt Nam và nhà đầu tư dự án uy tín theo chuẩn quốc tế dựa trên năng lực xuất sắc về nền, móng và công trình ngầm. FECON đặt mục tiêu doanh thu Tập đoàn đạt 10.000 tỷ đồng vào năm 2025.

Theo: Báo Đầu tư

Gió là nguồn năng lượng dồi dào, xanh và sạch đối với môi trường. Từ nhiều thế kỷ trước, con người đã biết tận dụng sức gió để phục vụ sản xuất và tạo ra điện.

Tuy nhiên, có một số điều khá thú vị mà có thể chúng ta chưa biết về loại năng lượng này.

Gió là một trong những loại hình năng lượng cổ xưa nhất

Từ 5.000 năm trước Công nguyên, tác dụng của gió đã được biết đến trong chế tạo thuyền buồm. Các thủy thủ là những người đầu tiên tìm ra cách dễ dàng hơn để di chuyển trên biển, đặt nền móng cho sự hiểu biết của loài người về những khái niệm quan trọng như động lực học và lực nâng. Bắt đầu từ chiếc cối xay có cánh, những nguyên lí này trở thành chìa khóa cho sự đổi mới tiếp theo, mở màn cho cuộc cách mạng tự động hóa các hoạt động tốn nhiều thời gian trong nông nghiệp.

Ứng dụng thực tiễn của gió cũng đã được tìm thấy trong thế kỷ IX tại Iran (theo mô tả của Abu Ishaq al-Istakhri). Đó cũng là một dạng chong chóng lớn với cánh quạt có cấu trúc lưới phủ vải và hệ thống truyền động bằng dây thừng, ròng rọc… sử dụng để dịch chuyển những khối đá lớn trong xây dựng hoặc chuyển nước từ dưới thấp lên cao. Động cơ thô sơ dạng chong chóng ở Ấn Độ và Iran đều có trục quay đặt theo phương thẳng đứng, đĩa quay đặt theo phương nằm ngang.

1 MW năng lượng gió giúp giảm 2.600 tấn CO2

Theo thông tin của Phòng Thí nghiệm Năng lượng Tái tạo của Mỹ (NREL), sở dĩ điện gió được quan tâm vì 1MW điện gió được sản xuất sẽ giúp giảm khoảng 2.600 tấn CO2 phát thải ra môi trường. Thực tế là càng tiêu thụ ít nhiên liệu hóa thạch thì càng phát thải ít CO2 và giảm phát thải CO2 hiện trở thành tiêu chuẩn để theo dõi sự tiến bộ của việc áp dụng các loại hình năng lượng thay thế.

Một ví dụ điển hình như ở bang Massachusetts (Mỹ), trong năm 2004, trung bình mỗi người dân bang này thải ra 4,5 tấn CO2 từ sử dụng điện. Trong khi đó, chỉ cần 1 MW điện gió cũng có thể cấp điện cho khoảng 400 ngôi nhà mà không thải ra lượng CO2 nào. Bên cạnh việc giảm lượng phát thải CO2, điện gió cũng mang lại nhiều lợi ích hơn thủy điện, 1MW điện gió sẽ giúp tiết kiệm khoảng 1.293 triệu lít nước.

Năng lượng gió thực tế là năng lượng mặt trời

Nguồn gốc của loại năng lượng xanh vô tận này chính là từ mặt trời. Ánh sáng mặt trời làm ấm hành tinh của chúng ta, nhưng vì Trái đất chuyển động liên tục, bề mặt Trái đất cũng không bằng phẳng khiến nhiệt độ ở mỗi nơi khác nhau.

Sự chênh lệch về nhiệt độ gây ra những bất thường trong áp suất khí quyển; các phân tử khí sẽ di chuyển từ khu vực khí áp cao đến khu vực khí áp thấp, hình thành nên gió. Cường độ, thời gian thổi và hướng của gió lại chịu ả2718nh hưởng của một số yếu tố như thời tiết, thảm thực vật, bề mặt nước và địa hình.

Tất cả những yếu tố dễ biến đổi này tạo nên sự khó đoán của gió và trở thành một trong những lý do cho sự quan ngại rằng gió không bao giờ đủ ổn định để cung cấp cho nhu cầu năng lượng của con người. Những loại gió có thể dự đoán hầu hết đều thổi quanh khu vực gần bờ biển làm chi phí xây dựng các trang trại gió cũng tăng lên.

Điện gió không đe dọa đến các loài chim

Một trong những quan ngại chủ yếu của các ý kiến phản đối điện gió là sự nguy hiểm của các tuabin gió với các loài động vật hoang dã, đặc biệt là các loài chim. Tuy nhiên, dù có kích thước khổng lồ và tốc độ nguy hiểm nhưng những tuabin gió không hề gây ảnh hưởng đến môi trường hoang dã, hay đường bay của loài chim. Nghiên cứu của Học viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ khẳng định số lượng chim tử vong do các trang trại gió chỉ chiếm một số lượng không đáng kể trong tổng số lượng chim bị chết do con người gây ra.

Sản lượng điện gió thế giới tăng 4 lần từ năm 2000 đến 2006

Sản lượng điện gió đã tăng nhanh chóng từ năm 2000 đến 2006. Kể cả trong năm kinh tế thế giới suy thoái trầm trọng 2009, ngành công nghiệp điện gió vẫn phát triển mạnh mẽ. Chỉ riêng năm này, sản lượng điện gió thế giới đã tăng đến mức 158.000MW. Điện gió hiện nay đã đủ khả năng đáp ứng nhu cầu điện năng của 250 triệu người và hơn 70 quốc gia đã có trang trại điện gió.

Theo một báo cáo của Liên Hợp Quốc, việc chuyển đổi từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo (không chỉ riêng gió) đòi hỏi kinh phí hơn 12 nghìn tỷ USD. Cam kết này không dễ dàng thực hiện trong hai thập niên tới, đặc biệt là khi nguồn nguyên liệu truyền thống vẫn tương đối rẻ. Vì vậy, để duy trì sự tăng trưởng như từ năm 2000 đến 2006, các chính phủ cần có thêm nhiều ưu đãi hơn để khuyến khích phát triển điện gió.

Theo: petrotimes.vn

Với những đặc điểm lợi thế về tính thuận tiện, giá thành và khả năng ứng dụng sâu trong thực tiễn nhằm tiết kiệm năng lượng, giảm thiếu các tác động xấu tới môi trường, năng lượng gió đang được triển khai ở nhiều tỉnh thành tại Việt Nam.

Với những lợi ích thực tiễn, mô hình khai thác năng lượng gió đang được triển khai rộng khắp tại Việt Nam

1. Năng lượng gió thiếu tính ổn định

Đây là quan niệm sai lầm dễ thấy nhất khi nhận định về nguồn năng lượng này. Thực tế, vẫn còn có nhiều cách để lấy điện vào ngày lặng gió. Ngoài ra, các nhà máy sản xuất có thể sử dụng pin dung lượng cao nhằm tích trữ năng lượng gió để sử dụng khi cần thiết. Dự báo thời tiết chính xác hơn cũng làm giảm nhu cầu truyền thống về nguồn dự trữ lớn.

2. Tua bin gió rất ồn

Thực tế không phải vậy. Công nghệ năng lượng gió đã được cải tiến để giảm thiểu tiếng ồn cơ học. Nói chung, địa điểm lắp đặt tuabin gió cách xa nơi ở ít nhất 300 mét. Tại vị trí này, âm thanh “vo ve” do các cánh tuabin tạo ra là khoảng 43 decibel. Ở khoảng cách 500 mét, tiếng ồn sẽ giảm xuống 38 decibel. Tiếng ồn do tủ lạnh tạo ra là khoảng 40 decibel, trong khi tiếng ồn do máy sấy tóc tạo ra là 80 đến 90 decibel.

3. Năng lượng gió rất đắt

Đó là trước đây, còn hiện nay tình hình đã thay đổi. Khi giá cả giảm và hiệu quả kỹ thuật được cải thiện, điện năng được tạo ra từ năng lượng gió hiện có thể cạnh tranh với các nguồn năng lượng truyền thống.

Kể từ năm 2008, giá tuabin gió đã giảm từ 20% đến 40%. Ở một số nơi, chẳng hạn như Colorado (Mỹ), năng lượng gió đang thay thế các nhà máy điện truyền thống. Tại Việt Nam, các hệ thống nhà máy khai thác năng lượng gió hiện đã được triển khai ở một số tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận, Bạc Liêu, Tây Nguyên, Quảng Ninh…

4. Tua bin giết dơi và chim và gây hại cho môi trường

Không hoàn toàn đúng. Chim và dơi thực sự có thể bay vào tuabin, nhưng các trang trại điện gió của một số quốc gia đã hợp tác với các tổ chức môi trường và động vật hoang dã để giảm tác động của các trang trại gió đối với động vật hoang dã.

Nhằm hạn chế sự va chạm, việc bổ sung kiến thức về hành vi của động vật hoang dã có thể giúp bảo vệ các loài chim và dơi. Ví dụ, giữ cho cánh tuabin đứng yên trong giờ hoạt động của dơi có thể giảm một nửa số dơi chết. Các công nghệ kháng âm, radar và ảnh nhiệt cũng đang được nỗ lực để bảo vệ các loài động vật hoang dã.

5. Gió là một nguồn năng lượng không liên quan

Không đúng. Năng lượng gió đã trở thành nguồn năng lượng sạch đơn lẻ lớn nhất ở Mỹ, và đã vượt qua thủy điện về công suất lắp đặt. Năng lượng gió đang phát triển ở các bang nhiều gió, đặc biệt là ở Texas và Trung Tây.

Theo ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, 60% công suất phát điện quy mô tiện ích mới được bổ sung trên lưới điện trong năm 2016 đến từ năng lượng gió và năng lượng mặt trời.

Trên thực tế, năng lượng gió đã được sử dụng trong hàng nghìn năm với các ứng dụng trong sinh hoạt và đời sống hàng ngày như bơm nước, xay hạt và bây giờ được sử dụng để phát điện.

Theo ước tính, một tuabin gió có thể cung cấp điện cho 500 hộ gia đình. Không giống như hầu hết sản xuất điện quy mô tiện ích, sản xuất điện gió hầu như không cần nước.

Ngoại trừ Trung Quốc, Mỹ sản xuất nhiều năng lượng gió hơn bất kỳ quốc gia nào khác, hiện nguồn năng lượng sạch này cũng bắt đầu được chú trọng và triển khai tại các khu vực có điều kiện phù hợp của Việt Nam.

Với những đặc điểm lợi thế về tính thuận tiện, giá thành và khả năng ứng dụng sâu trong thực tiễn, nhằm tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu các tác động xấu tới môi trường. Những chính sách liên quan đến việc tạo điều kiện để phát triển và khai thác mở rộng nguồn năng lượng gió đang được các bộ, ngành liên quan thúc đẩy tại Việt Nam trong thời gian gần đây.

Theo: Vietnamnet

Ngày 16/12, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Lê Ánh Dương làm việc với Công ty CP Thủy điện Mai Châu (Hòa Bình) về việc khảo sát dự án điện gió tại các xã: Tuấn Đạo, Dương Hưu (Sơn Động), Huyền Sơn (Lục Nam) và dự án nuôi bò thịt thương phẩm công nghệ sạch tại huyện Tân Yên.

Tại buổi làm việc, ông Lê Trường Thủy, Giám đốc công ty – đại diện nhà đầu tư thông tin về năng lực tài chính cũng như kinh nghiệm triển khai điện gió. Theo đó, doanh nghiệp (DN) có nhiều năm liên doanh, hợp tác với Công ty Enertrag Aktiengesellschaft (Cộng hòa Liên bang Đức) và đã thực hiện nhiều dự án điện gió thành công ở một số tỉnh phía Nam.

Qua nghiên cứu sơ bộ cho thấy, sức gió của Bắc Giang phù hợp với phát triển điện gió. Do đó, DN muốn được khảo sát cụ thể, nghiên cứu kỹ địa hình để đầu tư dự án nhà máy điện gió tại Bắc Giang với tổng công suất dự kiến 300MW.

Ngoài ra, với thế mạnh sẵn có, công ty mong được triển khai dự án nuôi bò thương phẩm công nghệ sạch ở xã Tân Trung (Tân Yên) kết hợp với sản xuất phân hữu cơ vi sinh. Dự án nuôi bò dự kiến chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn 1 quy mô 1 – 2 nghìn con đầu tư khoảng 50 tỷ đồng; giai đoạn 2 gồm 5 nghìn con, đầu tư 100 tỷ đồng; giai đoạn 3 lên tới 10 nghìn con, đầu tư 200 tỷ đồng.

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Lê Ánh Dương (bên phải) làm việc với đại diện Công ty CP Thủy điện Mai Châu

Qua nghe đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Lê Ánh Dương nhấn mạnh, hiện nay sản xuất điện gió đang được Chính phủ khuyến khích bởi không chỉ tạo ra nguồn năng lượng sạch mà còn tạo cảnh quan tại khu vực thực hiện. Hơn nữa, việc nghiên cứu lập quy hoạch và thực hiện dự án đầu tư sản xuất điện gió là phù hợp với định hướng phát triển năng lượng, thu hút đầu tư của tỉnh trong thời gian tới.

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang thông tin, hiện Bắc Giang đã có một DN đăng ký đầu tư điện gió song không trùng với vị trí Công ty CP Thủy điện Mai Châu đề xuất. Vì thế, tỉnh nhất trí cho DN vào khảo sát đầu tư. Ông Lê Ánh Dương giao Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Thế Tuấn phụ trách nội dung này; chỉ đạo các sở, ngành liên quan phối hợp tạo điều kiện cho DN thực hiện các trình tự theo quy định.

Trích nguồn: Báo Bắc Giang

 

 

 

Ngày 9/12, tại Hà Nội, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức Lễ công bố triển khai “Hóa đơn tiền điện ứng dụng QR code”.
Đây là sự kiện đánh dấu quá trình tiếp tục ứng dụng các công nghệ, giải pháp mới để mang lại sự thuận lợi nhất cho khách hàng sử dụng điện trên cả nước. Việc triển khai áp dụng QR code theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước thể hiện nỗ lực của Tập đoàn trong việc không ngừng cải tiến, đưa dịch vụ điện đến với khách hàng ngày càng thuận lợi, công khai, minh bạch hơn trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, góp phần đẩy mạnh việc xây dựng nền kinh tế số. Đây là sự kiện nằm trong Tháng tri ân khách hàng năm 2020 và hướng tới kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống ngành điện lực Việt Nam (21/12/1954 – 21/12/2020).
EVN công bố triển khai hóa đơn tiền điện và các hồ sơ dịch vụ điện ứng dụng QR code

Trong những năm gần đây, EVN đã liên tục đổi mới công tác dịch vụ khách hàng với mục tiêu ngày càng thân thiện và hiện đại. Năm 2015, EVN áp dụng hoá đơn điện tử cho toàn bộ khách hàng. Từ ngày 21/12/2018, EVN cung cấp các dịch vụ điện trực tuyến ở cấp độ 4 và triển khai ký kết Hợp đồng điện tử đối với Hợp đồng mua bán điện và các dịch vụ điện năng từ 12/12/2019. Trong tháng 12 năm 2019, EVN cung cấp 100% dịch vụ điện trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Vào tháng 3/2020, EVN tiếp tục công bố mẫu hóa đơn tiền điện mới, dễ theo dõi và thân thiện hơn cho khách hàng.

Sự kiện triển khai QR code lần này khẳng định EVN là một trong những doanh nghiệp Nhà nước tiên phong trong việc cải cách để đưa các dịch vụ, hồ sơ nghiệp vụ theo hướng áp dụng các giao dịch điện tử với mức độ bảo mật cao hơn, đảm bảo an toàn về thông tin cho mọi khách hàng.

Các đại biểu thực hiện nghi thức kích hoạt triển khai hoá đơn điện tử ứng dụng QR Code

Bắt đầu từ tháng 1/2021, EVN triển khai ứng dụng QR code theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước cho tất cả khách hàng sử dụng điện, mỗi khách hàng sẽ có một mã QR code của mình. Mã QR code này sẽ gắn liền với mỗi khách hàng, được áp dụng trên toàn bộ hồ sơ khách hàng, trên hóa đơn tiền điện và thông báo tiền điện. Khách hàng cũng không cần phải nhớ mã số khách hàng khi thực hiện giao dịch với EVN, đồng thời việc thanh toán cho các dịch vụ điện năng của khách hàng trở nên đơn giản hơn, thuận tiện hơn.

Khi thực hiện thanh toán, khách hàng chỉ cần quét mã QR và nhập số tiền, giao dịch thanh toán sẽ hoàn thành nhanh chóng mà không cần khai báo thông tin người dùng. Bên cạnh đó, khách hàng có thể lưu trữ thông tin thanh toán trên điện thoại di động cá nhân, thanh toán tiền điện mọi lúc, mọi nơi chỉ với một thao tác quét mã QR code. QR code được áp dụng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước giúp khách hàng yên tâm hơn khi thực hiện các giao dịch thanh toán dịch vụ điện năng với hai lớp bảo mật cùng định dạng đặc biệt của QR code. Còn với phía ngành điện, việc áp dụng QR code sẽ góp phần tăng năng suất lao động, đem lại hiệu quả cao hơn trong công tác kinh doanh điện năng và dịch vụ khách hàng.

Tính đến thời điểm hiện nay, các đơn vị điện lực thuộc EVN đã hợp tác với trên 30 ngân hàng, 10 tổ chức trung gian thanh toán và gần 10.000 tổ chức, cá nhân dịch vụ bán lẻ điện năng để thực hiện việc thu tiền điện trong điều kiện thường xuyên đảm bảo tỷ lệ thu ở mức cao trên 99,7% hàng năm. Về thanh toán không dùng tiền mặt, hiện nay các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán góp phần thu tiền điện trên 20,36 triệu khách hàng, chiếm tỷ lệ 74,44% về số lượng hóa đơn và 93,68% về số tiền; các tổ chức, cá nhân dịch vụ bán lẻ điện năng thu bình quân gần 5,85 triệu khách hàng, chiếm tỷ lệ 21,38% về số lượng hóa đơn và 4,46% về số tiền. Nếu xét chung về tỷ lệ thanh toán tiền điện: số khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt hiện nay đạt 70,25%; số tiền điện thanh toán không dùng tiền mặt toàn EVN đạt 91,54%.

Đại diện EVN giới thiệu về QR code trên hóa đơn điện tử

Theo đánh giá của tư vấn độc lập, sự hài lòng của khách hàng đối với những dịch vụ điện ngày càng tăng lên, đồng thời cũng được đánh giá tích cực từ các tổ chức quốc tế. Hiện nay, EVN đang tiếp tục tập trung thực hiện Đề án Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh và Đề án chuyển đổi số. EVN định hướng tiếp tục chuyển đổi số mạnh mẽ trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phấn đấu đưa EVN sớm trở thành doanh nghiệp số và xây dựng một Tập đoàn kinh tế hiện đại, phát triển bền vững, hiệu quả.

Toạ đàm trực tuyến “Chuyển dịch năng lượng sạch – xu thế tất yếu và lợi ích cho địa phương” với sự tham gia của 8 điểm cầu Hà Tĩnh, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng đã thảo luận về những thách thức và rào cản cho phát triển năng lượng sạch; đề xuất các giải pháp, sáng kiến đột phá để thúc đẩy năng lượng sạch, đảm bảo bền vững ở khu vực Bắc Trung Bộ.

Toạ đàm do Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam và các đối tác tổ chức ngày 18/9.

Các đại biểu tham dự Toạ đàm tại điểm cầu Hà Tĩnh. 

Nắm bắt xu thế phát triển năng lượng, thời gian qua, Việt Nam đã ban hành một số chủ trương, chính sách và cơ chế, trong đó xác định chiến lược phát triển năng lượng tái tạo. Đặc biệt, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã tạo những thúc đẩy mạnh mẽ trong việc phát triển năng lượng tái tạo. Nghị quyết nêu nhiệm vụ quan trọng là xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch. Ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy điện sử dụng rác thải đô thị, sinh khối và chất thải rắn đi đôi với công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn. Hình thành và phát triển một số trung tâm năng lượng tái tạo tại các vùng và các địa phương có lợi thế.

Từ các chủ trương khuyến khích của nhà nước, gần đây, nhiều dự án điện gió và mặt trời cũng được gia tăng, bổ sung vào quy hoạch điện. Tính đến tháng 6 năm 2020, tổng công suất nguồn điện năng lượng tái tạo đã chiếm khoảng 10% công suất của cả hệ thống điện Việt Nam với khoảng 5.500MW. Trong đó, Miền Trung là khu vực có tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo rất lớn. Với cơ chế hỗ trợ giá đối với các loại hình năng lượng tái tạo, khu vực này đã ghi nhận các dự án với gần 3.000 MW điện năng lượng tái tạo đi vào vận hành, riêng điện mặt trời là khoảng 1.160 MW.

Nghị quyết số 55-NQ/TW xác định ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện.
(Ảnh minh hoạ. Nguồn: TTXVN)

Tại Toạ đàm, các đại biểu đã tập trung phân tích, thảo luận về một số nội dung: Cập nhật tiến bộ về chuyển dịch năng lượng sạch trên thế giới, Việt Nam và khu vực Bắc Trung Bộ; các thách thức và rào cản trong phát triển năng lượng sạch ở khu vực Bắc Trung Bộ; lợi thế, cơ hội, lợi ích của phát triển năng lượng bền vững đối với đảm bảo an ninh năng lượng, thu hút đầu tư, tạo việc làm, phục hồi và tăng trưởng kinh tế xanh; giải pháp, sáng kiến đột phá để thúc đẩy năng lượng sạch, đảm bảo công bằng và bền vững ở khu vực Bắc Trung Bộ.

Thông qua tọa đàm góp phần giúp các địa phương khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng./.

Trích nguồn: Dangcongsan.vn

Nguồn mặt trời đã bổ sung tốt cho cung cấp điện. Công suất tối đa ghi nhận 3.519MW, sản lượng phát 25-26 triệu kWh, tương đương 1 nhà máy điện than 1.200MW.d

Với chủ đề Chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam: “Cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm từ quốc tế”, Tuần lễ Năng lượng tái tạo Việt Nam do Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) phối  hợp với cơ quan điều phối là Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh tổ chức đã khai mạc tại Hà Nội sáng 17/9.

Trao đổi tại hội thảo, Vụ Trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Ban Tuyên Giáo Trung ương Phạm Ngọc Linh cho biết, nguồn điện cung cấp cho phát triển công nghiệp nói riêng hay nền kinh tế nói chung phụ thuộc hoàn toàn vào việc sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch, là nguồn phát thải CO2 chủ yếu hiện nay.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang tác động tiêu cực trên toàn thế giới (thảm họa cháy rừng Amazon, bão Dorian tàn phá đảo Bahamas nước Mỹ) Việt Nam cũng phải đối diện bài toán tìm nguồn năng lượng mới.

Khi hạn chế sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch sẽ ảnh hưởng đến sản xuất của nhiệt điện than – nguồn chiếm khoảng 48% sản lượng điện trên cả nước. Xu hướng nhiệt độ tăng, mưa giảm trong những năm qua khiến nhiều hồ thủy điện tại miền Trung – Tây Nguyên đang gần mực nước chết, gây áp lực lớn cho đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ sản xuất, sinh hoạt.

Để đối mặt với tình trạng này, việc tìm nguồn nguyên liệu mới thay thế là bắt buộc. Năng lượng tái tạo chính là nguồn năng lượng của tương lai gần để dần thay thế các nguồn điện truyền thống.

Từ năm 2017 đến nay, Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo để thúc đẩy sản xuất và thu hút nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Chỉ trong thời gian 2 năm, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện quốc gia tăng nhanh từ không đáng kể lên hơn 9% với 2 nguồn chủ yếu là điện gió và điện mặt trời.

“Đó là những thay đổi tích cực thể hiện sự nỗ lực cần được ghi nhận của Chính phủ và người dân để giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng truyền thống nhằm bảo vệ môi trường, vì sự phát triển bền vững của Việt Nam. Năng lượng tái tạo là tương lai của hệ thống điện” – ông Phạm Ngọc Linh này nhấn mạnh.

Điều quan trọng hiện nay là từng bước hoàn thiện quá trình chuyển dịch từ nguồn nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo, để việc phát triển năng lượng tái tạo không chỉ đóng góp trực tiếp cho sự vận hành, phát triển của ngành điện mà còn mang lại những ảnh hướng tích cực đến đời sống – xã hội và sự phát triển chung của toàn nền kinh tế.

Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo Đỗ Đức Quân (Bộ Công Thương), đặt vấn đề: Với năng lượng tái tạo, cơ cấu nguồn này nằm trong hệ thống điện bao nhiêu phần trăm là vừa để vận hành ổn định, an toàn? “Chúng tôi đã trao đổi với nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, họ đều nhận định nguồn năng lượng này chiếm khoảng 10-15% công suất của hệ thống điện.

Các nước khác, do đặc điểm khác nhau, có thể đến 30%, thậm chí phấn đấu đến 60 -70% năng lượng tái tạo. Với Việt Nam, đến 2025, tổng công suất hệ thống điện khoảng gần 100.000 MW, thì năng lượng tái tạo khoảng 15.000 là vừa”, ông Đỗ Đức Quân cho biết.

Bên cạnh đó, sự phát triển hệ thống lưu trữ điện gió, điện mặt trời còn đắt, nhiều vấn đề. Hiện nay, các nhà đầu tư, doanh nghiệp lớn trên thế giới cũng như ngân hàng lớn đang tập trung đầu tư, nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống lưu trữ mới, đảm bảo môi trường. Hy vọng khi hệ thống lưu trữ điện phát triển, thương mại hoá, giá hành hợp lý… năng lượng tái tạo có tương lai tươi sáng hơn, ông Quân nói thêm.

Theo ông Lê Hải Đăng, Trưởng Ban Chiến lược, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, với đặc thù của Việt Nam hiện nay, 50% điện sử dụng do điện than đảm nhận. Trong 8 tháng qua, phần năng lượng tái tạo đã phát lên lưới 2,8 tỷ kWh, đạt hơn 106% dự kiến cả năm 2019.

Nhờ yếu tố thuận lợi, điện mặt trời đã hỗ trợ tích cực cho hệ thống. Trong các tháng đầu năm 2019, nguồn mặt trời đã bổ sung tốt cho cung cấp điện. Công suất tối đa ghi nhận 3.519MW, sản lượng phát 25-26 triệu kWh, tương đương 1 nhà máy điện than 1.200MW như Vĩnh Tân 1, 2, Duyên Hải 1.

Tuy nhiên, ông Đăng cho rằng, để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, cần phải có các giải pháp, tính toán, xác định giới hạn công suất truyền tải trên đường dây 500kV Bắc Nam; bổ sung thêm các hệ thống bảo vệ đặc biệt (sa thải phụ tải theo điện áp, theo giới hạn ổn định). Đồng thời, nghiên cứu khả năng ứng dụng thiết bị tích trữ năng lượng.

“Để đảm bảo cung cấp điện giai đoạn đến 2025, EVN đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương tiếp tục khuyến khích phát triển các dự án năng lượng tái tạo theo cơ chế giá FIT (là giá bán điện năng sản xuất ra từ nguồn năng lượng tái tạo được cung cấp vào hoặc bán cho lưới điện) để có thể đưa vào vận hành thêm khoảng 12.700MW điện mặt trời và 7.200MW điện gió trong giai đoạn đến năm 2023 (ưu tiên phát triển các dự án đã có quy hoạch và không bị ràng buộc lưới điện truyền tải);

Sớm hoàn thiện và ban hành các quy định phát triển năng lượng tái tạo theo hình thức đấu thầu nhằm tăng cường tính minh bạch và giảm giá mua điện từ các dự án”, ông Đăng nói./.